Trên kia đã bàn về dụng thần kinh phù cho trường hợp nhật can nhược, quan sát nhiều thì dụng thần chọn ấn tinh làm dụng thần thứ nhất. Trong trường hợp đó ấn tinh đã đóng vai trò không thể thiếu được là thông quan kiểm sinh phù. Vì trị năm nhược, cho nên công dụng chủ yếu của nó là sinh phù. Còn ở đây bàn về tác dụng thông quan của ấn tỉnh, tức là bối cảnh đã thay đổi, cho nên trong ứng dụng không thể áp dụng một cách máy móc vô nguyên tắc. Cụ thể ở đây nói về trường hợp nhật vượng và quan sát cũng vượng mà dùng ấn tinh làm dụng thần. Khi một đôi mâu thuẫn đối lập nhau thì cái hộ thân là nhật vượng được dùng làm thuẫn. Thuẫn đó phải chắc chắn mới đề kháng được sự tấn công của mâu. Ở đây ấn tinh làm xì hơi vượng khí của mẫu để sinh cho thân, tức là “vừa dùng uy phong diệt địch, vừa tăng thêm chí khí của ta”.
Vì vậy mà nói ấn tinh ở đây đã có vai trò thông quan thực sự. Khi nhật vượng, quan sát cũng vượng mà có ấn tinh không đến nỗi vượng quá để sinh thân thì nó sẽ làm cho thế lực đối địch của hai bên cân bằng,
hợp nhật nhược, quan sát cũng nhược thì ấn vượng sẽ có tác dụng thông quan to lớn. Nhưng trường hợp như thế ít gặp, vị nhật nhược có nghĩa là khắc đi, làm hao tổn, làm xì hơi nó thì sẽ trở thành vượng, trừ khi là quan sát chế hợp thực thương mạnh quá mới làm cho nó yếu. Người mà mệnh cục nhật can nhược, quan sát nhiều thì đương nhiên sẽ không thể quyền cao chức lớn.
Mối quan hệ sinh khắc chế hóa của mười thần để bàn về dụng thần thông quan
Như đã biết trong chương hại và chương Báu, ngũ hành của mười thần đi theo chiều liên tục thì tương sinh, cách ngôi thì tương khắc. Ví dụ tài tinh khắc ấn kiêu, ấn kiêu khắc thương thực, thương thực khắc quan sát, quan sát khắc tỉ kiếp, tỉ kiếp khắc tài tinh. Vì vậy giữa tài tinh và ấn tinh có quan sát thì sẽ trở thành liên tục để tương sinh. Giữa ấn kiêu và thượng thực nếu có tỉ kiếp, hay giữa thương thực và Quan sát nếu có tài tinh; giữa quan sát và tỉ kiếp nếu có ấn kiêu; giữa tỉ kiếp và tài tinh nếu có thương thực thì đều trở thành liên tục và sẽ được tương sinh. Tôi cho rằng trừ thương thực khắc quan sát là nhược đối với nhược nên không thành mâu thuẫn ra, còn những cái khác đều là hai hành đối lập có tinh chất khác nhau của mệnh cục, sự cạnh tranh của chúng như âm với dương, như cường với nhược, không phân thắng bại, vì thế cho nên mới bàn đến phải thông quan với nhau. Nếu không thì mệnh cục đó bị trục trặc.
Chỉ có giữa vượng và nhược đối lập phải thông thương thì mới làm cho hai hành trung hòa, đồng thời lấy thân vượng hơi trội một ít để làm sợi dây xuyên suốt. Quan điểm đó phải phù hợp với ý nghĩa thông quan.
Ở đây cần lưu ý: khi giữa tỉ kiếp và tài tinh, cả hai bên thế lực ngang nhau, bất phân thắng bại, nếu lấy thực thương thông quan để xì hơi tỉ kiếp và sinh tài tinh, thì nhật nhược mà tài vượng. Sự thông quan đó sẽ không có tác dụng như dụng thần, vì thế cho nên không thể so sánh với trường hợp dụng thần thông quan được. Trừ khi nhật can vượng, phải lấy dụng thần để xì hơi mà thông quan sinh tài thì mới gọi là dụng thần. Cho nên khi trong Tứ trụ có sự cân bằng tương đối thì cách chọn thông quan dụng thần như sau:
Tài tinh và ấn tinh cùng vượng, cùng tương tranh, phải có một tí quan sát là có thể thông quan. An kiêu và thực thương cùng vượng, cùng tượng tranh, nhật can được lệnh là có thể thông quan. Quan sát và tỉ kiếp cùng vượng, cùng tương tranh, phải có một ít ấn tinh là có thể thông quan.
Tài tinh và ấn tinh cùng vượng, cùng tương tranh, phải có một tí quan sát là có thể thông quan
Dụng thần điều hầu – bổ cứu ba
Trong ngũ hành được chia ra cao, thấp cũng như bốn mùa có ấm, có lạnh. Mệnh cục cao nóng thì mong gặp được nhuận ướt, mệnh cục hàn thấp thì mong gặp được ôn ấm. Đó là những mệnh cục sinh vào tháng đông hay tháng hạ, cần đến những phương thuốc bổ khí, dụng thần điều hầu chính là phương thuốc đó. Mão là thuần mộc của mùa xuân, dậu là thuần kim của mùa thu. Tháng trọng của hai mùa xuân, thu thì độ nóng lạnh thích hợp, cho nên sự táo, thấp không rõ ràng. Tỉ là thuần thuỷ, thuỷ đương nhiên là thấp; trong sửu thì tị, tân là thấp thổ, thấp kim, vì trong thổ tàng quý thuỷ. Trong dần thì giáp, mậu là táo mộc, táo thổ, vì trong dân có bính hoả. Trong thần thì mậu ất là thấp thổ, thấp mộc, vì trong thần tàng tí thuỷ. Trong tự thì canh mậu là táo kim, táo thổ, vì trong tự tàng bính hoả.
Trong ngo, kỉ là táo thổ, vì trong ngo tàng đinh hoả. Trong mùi thì tị, mậu, tân là táo thổ, táo kim, vì trong tuất tăng định hoả. Trong hội thì giáp là thấp mộc, vì trong hơi tàng nhầm thuỷ.
Thổ tuy khắc thuỷ, nhưng nếu mệnh cục thuỷ quá vượng thì sẽ tràn khắp nơi thành tai họa, lại còn gặp thìn sửu là thấp thổ thì không những không chặn được thuỷ, ngược lại còn làm tăng thế của thuỷ, vì thìn là thuỷ kho, sửu là dư khí của thuỷ. Thổ tuy có thể xì hơi hoả, nhưng nếu mệnh cục hoả quá vượng, đốt cháy nhiều là tại hoạ, lại còn gặp mùi là táo thổ thì không những không thể làm mờ ám hoả mà ngược lại còn làm tăng thêm thế của hỏa, vì tuất là hoả khô, mùi là dư khí của hoả.
Trong ngũ hành được chia ra cao, thấp cũng như bốn mùa có ấm, có lạnh
Điều hầu giống như trời lạnh mặc thêm áo, trời nóng cần được thoáng mát. Dụng thần chính là thân nhiệt của người, chuẩn là 37oC. Nhiệt độ trên dưới 25°C là thích hợp nhất với cơ thể con người, tức vào dịp hai mùa xuân thu. Cao hơn 25°C thì không phải khoác thêm áo ngoài, thấp hơn 25°C mặc áo sơ mi đã cảm thấy hơi mỏng. Cho nên khi cao hơn nhiệt độ bình thường là dấu hiệu sang hệ. Hành hóa trong mệnh cục là cái để làm ấm các hành khác, đó là khi Tứ trụ thiên về quá ôn táo. Người có Tứ trụ như thế là khí hoả thịnh, trung khí đầy đủ, sợ nóng, thích bơi tắm, ham uống nước giải khát, đó là sự điều tiết bản năng về thân nhiệt. Điều hậu trong mệnh lý là đối với hoả vượng, nhất là khi nhật can là bính hoả, định hoả lại được lệnh làm cho thân vượng thì mệnh cục nhất định phải dùng thuỷ để điều hầu, lợi khi đi về phương bắc thuỷ vượng.
Phương bắc ở đây chủ yếu là nói từ phía bắc Trường Giang trở lên, cũng là nói phía bắc của nơi sinh ra bố. Vì thông tin trong Tứ trụ của mỗi người đều có nhân di truyền. Nếu là người có bố sinh ra ở phía bắc Trường Giang thì lấy nơi sinh của bố làm chuẩn để điều hầu lên phía bắc. Qua sự nỗ lực của bản thân về sau, người đó nhất định sẽ gặp thuận lợi nhiều hơn so với người không được điều hầu. Quần áo cũng nên mặc màu đen thì tốt, vì thuỷ đại biểu cho phương bắc, màu đen, tất cả môi trường thông tin của người đó đều có lợi khi đã được dùng thuỷ để điều hâu.
Điều hầu giống như trời lạnh mặc thêm áo, trời nóng cần được thoáng mát
Dụng thần dùng lực tự nhiên để có lợi cho mình. Mệnh cục ki mộc phương đông sinh hoả và kị hoả ở phương nam là đất thân vượng. Mệnh cục cần dùng thuỷ điều hầu, nếu không có thuỷ thì cho dù Tứ trụ đã tương đối cân bằng vẫn cứ thiếu một hành (đối với Tứ trụ có dụng thần thông quan, không nhất thiết có đủ cả năm hành mà dụng thần có thể vẫn có lực, còn dụng thần điều hầu mà khuyết là Tứ trụ bệnh nặng). Nhưng còn phải xem các can: canh tân nhâm quý và các chi: thân, dậu, tuất, hợi, tí, sửu của vận có thể bổ cứu được không, hoặc có thuỷ hợp cục, thuỷ hội cục để cứu không. Nếu gặp được như thế là như cá gặp nước, như hạn hán gặp mưa. Nếu không gặp thì Tứ trụ đó kém. Khi nhiệt độ thấp hơn bình thường là dấu hiệu mùa đông đến. Trong mệnh cục mà thuỷ vượng là thiên về hàn là quá thấp. Người có Tứ trụ như thế, tính cách không đến nỗi yếu, khí cũng còn đủ, tuy nhiên trụ ngày vượng ở thuỷ, thân cũng vượng, đó đều là những đặc trưng nguyên khí đầy đủ. Nhưng khi quá vượng thì lại trở thành vấn đề khác. Thuỷ vượng, nhất là nhật can là nhâm quý thuỷ lại được lệnh nên thân vượng thì phần nhiều là người đó sợ hàn và thận hư, tức quá vượng trở thành hư.
Tứ trụ đó nhất định phải dùng hoả để điều hầu, nhất là người sinh vào ngày quý dậu, tức là ngày kim thần thân vượng, đi về phương nam thì sẽ là “kim thần nhập hoả hương, phú quý nổi tiếng thiên hạ”. Người thủy thịnh còn có thể lấy mộc phương đông để xì hơi thuỷ, đồng thời sinh hoả, cho nên nếu gặp được các vận trình: giáp, ất, bính, đinh, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi đưa hoả đến điều đầu thì càng tốt. Dụng thần điều hầu và dụng thần thông quan là dụng thần có tính bổ trợ, khi đoán mệnh phải lấy dụng thần sinh phù làm chủ.