Thuyết Ngũ Hành được ứng dụng với những quy tắc tương sinh tương khắc và phản ngược của tương sinh tương khắc, sự thái quá của từng hành; giúp lý giải, ứng dụng phù hợp đối với từng sự việc, hiện tượng của thiên nhiên, xã hội, con người…
Đặc tính của Ngũ Hành
Ngũ Hành gồm năm hành: Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ.
Mỗi hành có những đặc tính riêng biệt, hình thái và biểu lý phương cách khác nhau.
– Hành Thủy có đặc tính hàn lạnh, hướng xuống, thâm trầm, biểu hiện màu đen, uyển chuyển…
– Hành Hỏa có đặc tính nóng, bốc lên, sung lực, sắc đỏ, không hòa hoãn…
– Hành Kim có đặc tính sắc bén, thụ sát, thanh tĩnh, biểu hiện sắc
trắng, nhu động…
– Hành Mộc là tính sinh sôi nảy nở, thẳng ngay, cong dài với sắc khí xanh, dịu êm…
– Hành Thổ (đất) có tính nuôi dưỡng, che chở, hóa dục với sắc vàng nâu…
Ngũ Hành chính là sự so sánh biểu lý. Nó quy tụ những đặc tính cơ bản, tàng ẩn trong sự vật hiện tượng, từ đó con người có thể so sánh để đi đến một lý giải hợp lý.
Ngũ Hành chính là sự so sánh biểu lý
Nhờ có Ngũ Hành với đặc trưng biểu lý mà mọi sự vật, hiện tượng có thể được quy vào một Hành đặc trưng nào đó, giúp con người nắm bắt được các thuộc tính của sự vật, hiện tượng một cách dễ dàng. Ngũ Hành khái quá hóa thuộc tính, đi từ khó hiểu, trừu tượng đến sự rõ ràng, dễ hiểu dễ biết để nhận biết một thực thể nào đó.
Nói hành Hỏa thì mơ hồ nhưng nói sắc đỏ, nóng, bốc, v.v… thì mọi người hiểu ngay. Đó là thuộc tính làm cho dễ nhận biết Hành Hỏa.
Quy luật sinh khắc của Ngũ Hành
Quy luật tương sinh và tương khắc là hai phạm trù đối lập nhau như Âm và Dương. Gọi là phạm trù vì quy luật tương sinh tương khắc bao hàm sự sinh trưởng và kiềm chế, diệt, khắc để duy trì thế cân bằng trong tự nhiên, xã hội và con người. Không có tương sinh thì không có tương khắc. Bởi nếu chỉ sinh mà không có khắc thì vạn vật phát triển đến hỗn loạn rồi tự diệt vong. Vì vậy, phải có sự khắc chế để kìm hãm, chế ngự. Nhờ đó, sự phát triển hài hòa được tạo lập. Cứ thế, hai vế dựa vào nhau làm cơ sở cho sự phát triển của vạn vật. Như vậy, trong sinh có khắc, trong khắc có sinh. Sinh khắc không ngừng thì vạn vật phát triển không ngừng. Cái này sinh cái kia nhưng lại bị cái kế tiếp khắc chế, một chuỗi mối liên quan tạo ra sự phát triển cân đối hài hòa. Một lúc nào đó quy luật tương sinh và tương khắc bị vi phạm sẽ xảy ra quá sinh và quá khắc.
Quy luật tương sinh và tương khắc là hai phạm trù đối lập nhau như Âm và Dương
Không có tương sinh thì không có tương khắc
Quá sinh sẽ dư thừa Quá khắc sẽ bị triệt tiêu.
Sự dư thừa dẫn đến nội sinh theo quy luật sinh tồn Âm Dương mà trở lại thế cân bằng. Sự triệt tiêu sẽ ra đời thực thể khác tự sinh cũng theo quy luật sinh tồn của tạo hóa.
Tương sinh tương khắc là sự tương đồng sinh khắc để thúc đẩy sự vật sinh trưởng phát triển, biến hóa không ngừng. Không có sinh thì sự vật không phát triển, không có khắc thì không thể duy trì thế cân bằng.
Sự sinh khắc trong ngũ hành
– Tương sinh là bổ trợ cùng thúc đẩy phát triển và trợ giúp nhau. Tương sinh gồm các quan hệ hành là:
Mộc sinh Hỏa Hỏa sinh Thổ Thổ sinh Kim
Kim sinh Thủy Thủy sinh Mộc
Như vậy, tương sinh là một vòng khép kín tạo sự liên quan tương hỗ cho sự sinh sôi nảy nở liên hoàn trong tự nhiên theo ý nghĩa biểu lý chứ không phải theo nghĩa thực thể.
– Tương khắc là hai Hành có tính chế khắc nhau, khống chế nhau nhằm kìm hãm sự phát triển vô độ. Tương khắc cũng là sự liên hoàn khắc chế:
Mộc khắc Thổ Thổ khắc Thủy Thủy khắc Hỏa
Hỏa khắc Kim Kim khắc Mộc
Như vậy, sự khắc chế cũng chỉ mang ý nghĩa biểu lý chứ không phải theo nghĩa thực thể.
Mối liên quan biểu lý là liên hoàn, không gián đoạn. Hiểu một cách giản đơn, thực thể là: Thổ sinh Kim thì Thổ là “cha mẹ” của Kim, Kim sinh Thủy thì Thủy là “con” của Kim, Kim khắc Mộc và Kim – Kim cùng loại ngang nhau là “anh em”…
– Mối liên hoàn liên tục còn phân ra “ quan gửi” và “thê tài”. Đối với nam thì “thê tài” là vợ và của cải, đối với nữ thì “quan gửi” vừa là quan vừa là chồng, cho nên trong Ngũ Hành thể hiện quan hệ biểu lý.
Thổ sinh Kim thì Thổ là “cha mẹ” của Kim, Hỏa khắc Kim thì Hỏa là “quan gửi” của Kim. Kim khắc Mộc nên Mộc là “thê tài” (vợ) của Kim.
Kim lại sinh Thủy, thì Thủy là “con cái” của kim.
Từ mối quan hệ biểu lý thứ bậc ấy mà hiểu thì Kim – Kim là ngang vai cùng lứa.
Sự sinh – khắc đều là “tương”. “Tương” vừa mang ý nghĩa cùng nhau, hỗ trợ qua lại, vừa có nghĩa là tương đối. Tương sinh hay tương khắc là quy luật tương đối. Quy luật tương sinh tương khắc cần phải có một lượng nào đó để đạt được mức (chất) mới, từ đó sinh ra cái mới. Ví dụ, hành Hỏa muốn khắc được Mộc thì Hỏa phải đủ mạnh. Lửa đèn, lửa nến làm sao đốt được rừng rậm (Đại lâm Mộc) để sinh ra Thổ. Tính tương đối là như vậy. Hỏa khắc Mộc, sinh Thổ. Như vậy, Hỏa phải đủ lượng mới có thể “khắc” và “sinh”. Vì vậy, thuyết Ngũ Hành còn có quy luật phản ngược.
Quy luật phản ngược của Ngũ Hành
Trong Ngũ Hành có quy luật tương sinh và tương khắc, song đó là mối quan hệ thuận chiều. Sự khắc chế chỉ được thực hiện khi chủ thể gây ra sự khắc chế đủ mạnh. Nhưng trong phạm trù sinh khắc rộng lớn giữa các hành và trong từng hành lại nảy sinh quy luật phản ngược.
Trong phạm trù sinh khắc rộng lớn giữa các hành và trong từng hành lại nảy sinh quy luật phản ngược
Ví dụ, mối quan hệ tương khắc Thổ – Thủy không đơn giản là Thổ khắc Thủy. Nếu là đất vách tường (Bích thượng Thổ) thì sẽ bị nước lớn (Đại hải Thủy) cuốn trôi. Như vậy, trong trường hợp này lại là Thủy khống chế (khắc) Thổ.
Tương tự, Thổ vượng thì Mộc suy chứ không đơn thuần là Mộc khắc Thổ. Thuận và nghịch tương quan. Cũng như vậy, theo quy luật khắc chế đảo của Ngũ Hành ta có: Mộc vượng thì Kim suy, Kim vượng thì Hỏa suy, Hỏa vượng thì Thủy kiệt. Thủy vượng thì Thổ tan, Thổ vượng thì Mộc úa. Cứ thế, vòng phản ngược của Ngũ Hành cũng liên hoàn giống như quy luật tương sinh tương khắc
Quy luật thịnh quá hóa suy
Thuyết Ngũ Hành còn có quy luật thịnh quá hóa suy. Trong Ngũ Hành, bất cứ hành nào cũng bị quy luật này chi phối. Sự phát triển cực thịnh sẽ dẫn đến thừa và thừa sẽ đưa đến suy. Như vậy, trong thịnh đã tàng ẩn mầm suy vong.
Phàm vật quá rắn thì dễ vỡ, thứ cứng quá thì dễ gãy, v.v… dư thừa sẽ dẫn đến suy là vậy.
Bàn về quy luật tương sinh tương khắc trong Ngũ Hành
Ngũ Hành tương sinh tương khắc kế tiếp thuyết Âm Dương, làm cho cơ sở luận lý thêm sáng tỏ và việc ứng dụng có ý nghĩa bao trùm.
Lý thuyết Âm Dương được xem là gốc để các quy tắc Ngũ Hành được vận dụng trong nhiều môn, ngành một cách hiệu quả.
Lý thuyết Âm Dương được xem là gốc để các quy tắc Ngũ Hành phát triển
Trong thực tế, khi nói đến Ngũ Hành, người ta thường nghĩ ngay đến quy luật sinh khắc của thuyết này. Vì thế, chúng ta nhiều khi chỉ hiểu đơn thuần một chiều “sinh” hay chiều “khắc” mà quên rằng Ngũ Hành còn có quy luật phản ngược và quy luật thịnh quá hóa suy. Cần nắm vững bộ ba quy luật này để ứng dụng và lý giải cho đúng vấn đề thực tiễn. Đừng nghĩ một cách đơn thuần là cứ người mệnh Thủy thì không thể làm bạn với người mệnh Thổ hay người mệnh Thủy thì không lấy được người mệnh Hỏa. Phát biểu như vậy là không hiểu thấu lý thuyết Ngũ Hành và cũng không phù hợp với nhiều hiện tượng thực tế.