Học thuyết Âm Dương ngũ hành và âm dương ngũ hành tương truyền do Đổng Trọng Thư đời Hán sáng tạo và đưa vào mệnh lý học. Cách nói này tuy chưa đủ để tin, nhưng Đổng Trọng Thư đối với sự phát triển về mặt này có cống hiến rất lớn. Ngày nay, từ hai mặt y học và vận khí của con người, chúng ta có thể bạn một cách vắn tắt sự ảnh hưởng của âm dương ngũ hành, thiên can địa chỉ đối với con người.
Xét ảnh hưởng âm dương ngũ hành, thiên can địa chỉ đối với bệnh tật
Âm dương, ngũ hành là một danh từ triết học trừu tượng. Muốn diễn đạt rõ tác dụng của nó trong lĩnh vực khoa học và mối quan hệ của nó với cơ thể con người, nhất định phải dùng đến thiên can, địa chi. Vì trong thiên can, địa chỉ thể hiện chính xác thuộc tính của âm dương ngũ hành, mà những thuộc tính này lại là tiêu chí cụ thể về các thông tin của cơ thể. Cho nên âm dương ngũ hành, thiên can địa chỉ không những nói rõ sự ảnh hưởng to lớn của nó đối với sinh lý, bệnh lý và sự thay đổi do khí hậu, mà còn nói rõ sự thống nhất giữa cơ thể con người với hoàn cảnh xung quanh, tức là quan điểm trời, đất và người tương ứng thành một chỉnh thể.
Trước hết ta bàn về hại khí âm dương. Sách “Âm dương ứng tượng đại luận” nói: “Âm thắng thì dương bệnh, dương tháng thì ấm bệnh”. Hai khí âm dương trong cơ thể cân bằng lẫn nhau, nếu khí dương phát triển trội hơn thì khí âm tất sẽ bị tổn thương, ngược lại khí âm phát triển trội hơn, khí dương sẽ bị thương tổn, như vậy sẽ sinh bệnh, thậm chí tử vong. Trong sách “Mạch giải biên” nói rất cụ thể về nguyên nhân sinh bệnh: “Người tại ù là dương khí vạn vật thịnh mà sinh ra, thậm chí thành điên vậy”. Do đó trăm bệnh đều do khí mà sinh ra.
Xét về ngũ hành, sách “Tổ vấn trạch dịch” có nói: “Hợp với người thì lấy phép ngũ hành bốn mùa mà chữa. Ngũ hành là: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ, rất cao xa nhưng cũng rất gần gũi. Nó quyết định sự sống chết, thành bại, là khí của lục phủ, ngũ tạng”. Cơ thể con người là một vật thể âm dương đối lập rất phức tạp. Trong y học, từ xa xưa đã căn cứ vào âm dương ngũ hành, thiên can địa chỉ để sắp xếp các tổ chức khí quan, các bộ vị trên cơ thể, nó quyết định người thịnh hay suy, để chẩn đoán và chữa trị. Cho nên âm dương ngũ hành, thiên can địa chỉ, không chỉ dùng để nói rõ chức năng sinh lý của cơ thể, bệnh lý biến hóa mà còn để chỉ đạo chẩn đoán chữa trị bệnh tật. Để nói rõ vấn đề này, dưới đây sẽ giới thiệu bảng âm dương ngũ hành, thiên can địa chi phối với các tạng, phủ:
Trong y học, từ xa xưa đã căn cứ vào âm dương ngũ hành, thiên can địa chỉ để sắp xếp các tổ chức khí quan, các bộ vị trên cơ thể, nó quyết định người thịnh hay suy, để chẩn đoán và chữa trị
Thiên can địa chi phối với các tạng phủ là dựa vào sự vượng của bốn mùa và tuế vận của hàng năm làm chủ, từ đó có thể biết được thời gian nào có nạn dịch bệnh gì. Sách “Khí giao biến đại luận” nói: “Tuế mộc thái quá thì phong thấp lưu hành, tỷ lách) thể bị lâm bệnh. Hoả thái quá thì nhiệt cao, phổi thuộc kim bị bệnh. Năm thổ mạnh quá, phong thấp lưu hành nhiều, thận thuộc thuỷ bị bệnh. Năm kim mạnh quá thì táo bón lưu hành, gan thuộc mộc bị bệnh. Năm thuỷ mạnh quá thì hàn lưu rét nhiều, tâm thuộc hoả bị bệnh. Trong “Tàng khi pháp thời luận” nói: “Bệnh gan khỏi vào mùa hạ, mùa hạ không khỏi thì nặng vào mùa thu, mùa thu không chết kéo dài sang mùa đông lại bắt đầu khởi bệnh vào mùa xuân. Người bị bệnh gan khỏi ở bính, đinh, bình định không khỏi sẽ nặng thêm ở canh, tân; canh, tân không chết kéo dài sang nhâm quý, bắt đầu bị bệnh vào giáp, ất…”. Thuộc tính âm dương ngũ hành của tạng phủ con người phù hợp với âm dương ngũ hành trong thiên can địa chi mà kim mộc thuỷ hỏa thổ lại phân biệt vượng suy theo bốn mùa. Cho nên mộc vượng quá thì tỳ vị bị khắc, do đó tỳ vị bị bệnh. Hoặc nói cách khác, trong giờ sinh của con người mà mộc nhiều hoặc mộc vượng, còn thổ suy thì tỳ vị của người đó nhất định có bệnh. Do đó, nắm được mối quan hệ sinh khắc giữa thiên can địa chỉ với cơ thể con người và tính quan trọng của nó thì sẽ biết cách đề phòng bệnh tật một cách hữu hiệu và biết được bệnh nặng hay nhẹ, cát hay hung.
Thiên can địa chi phối với các tạng phủ là dựa vào sự vượng của bốn mùa và tuế vận của hàng năm làm chủ
Từ vận khí tốt xấu của con người để biết được ảnh hưởng của thiên can, địa chi
Học thuyết vận khí là môn khoa học, trong Đông y đã nghiên cứu quy luật vận động của thời tiết từ thời xa xưa, sau đó phát triển thành thiên văn vận khí học, hải dương vận khí học, khí tượng vận khí học, y học vận khí học, vv.. Tóm lại vận khí đối với vạn vật mà nói là khách quan tồn tại. Cho nên vạn vật có thuỷ chung, đế vượng có hứng suy, con người có cát hung là do có sự thống nhất trong ngũ vận. Con người ở giữa trời và đất, bốn mùa thay đổi, lạnh nóng khác nhau đều tự mình biết được. Khoa học vận khí được các lĩnh vực khác thừa nhận, còn con người có vấn đề vận khí hay không thiết tưởng cũng không nên tranh luận làm gì. Vì con người cũng là một vật trong vạn vật nên nó cũng bị ảnh hưởng sự vận động của các thiên thể, cũng bị vận khí chi phối.
Con người cũng là một vật trong vạn vật nên nó cũng bị ảnh hưởng sự vận động của các thiên thể, cũng bị vận khí chi phối
Thế nào là “vận”? Thế nào là “khí”? Tôi cho rằng: vận là hành, khí là hai khí âm dương. Hai khí âm dương vận động tồn tại hai trạng thái: cân bằng và mất cân bằng. Khi mất cân bằng sự vật sẽ mất đi tính quy định của chất; mất cân bằng thì sự thống nhất của mâu thuẫn bị phá hoại và sự vật này sẽ chuyển hóa thành vật khác. Mà sự cân bằng và mất cân bằng này, sự phá hoại và sự tồn tại đều phát sinh ra trong một thời gian và điều kiện nhất định. Thời gian và điều kiện chính là toàn bộ của quá trình sự vật phát sinh thay đổi. Trong quá trình này gặp khí tương sinh thì có lợi, gặp khí tương khắc thì có hại. Cho nên sự vật trong lúc vận hành gặp khí tương sinh hay tương khắc gọi là vận khí.
Thế nào là “vận”? Thế nào là “khí”?
Mùa xuân đến, cỏ cây tươi tốt, sang mùa thu cỏ cây khô dần. Sự biến hoá của bốn mùa đối với cơ thể con người cũng như vậy. Do đó trong sách “Thiên nguyên khí đại luận” nói: “Trời có ngũ hành, đóng ở năm phương vị để sinh ra: lạnh, nóng, phong, táo, thấp; người có 5 tạng hóa 5 khí để sinh ra: mừng, giận, thương nhớ, lo lắng, hoảng sợ”.
Trên kia đã nói về thiên can địa chi phối với các tạng phủ để chẩn đoán bệnh, ở đây sẽ bàn về sự sắp xếp thiên can địa chỉ của giờ sinh và sự vượng suy ảnh hưởng đến vận khí của con người.
Lấy thiên can địa chi phối vào năm tháng ngày giờ sinh để dự toán thông tin, phương pháp này đã trải qua hai giai đoạn lịch sử.
Bắt đầu từ Lý Hư Trung đời Đường, ông đã phối thiên can địa chỉ vào năm tháng ngày giờ sinh để dự đoán thông tin. Đến đời Tống, Từ Tử Bình đã phát triển phối thiên can địa chỉ vào năm tháng ngày giờ sinh thành tám chữ, nên gọi là phương pháp tám chữ. Sau khi phát minh tám chữ, lại phát minh ra cách sắp xếp vận khí của người. Do đó dùng thiên can địa chi phối với ngày sinh và cách sắp xếp vận khí để dự đoán tin tức đã là một sự phát minh lớn của nhân dân Trung Quốc. Phát minh này có thể dự đoán ra cát hung, họa phúc của cuộc đời, tính chính xác khá cao. Đó là cách dự đoán cát hung khá toàn diện, nhưng cũng rất khó nắm vững.
Thiên can địa chỉ trong giờ sinh không những là trạng huống thần thể của con người, tiêu chí thông tin về bệnh tật mà còn là tiêu chí tin tức về cuộc đời tốt hay xấu. Dùng phương pháp thiên can địa chỉ để dự đoán thông tin cũng là dùng nguyên lý âm dương biến hoá, lấy sự vượng suy, sinh khắc chế hóa của ngũ hành làm quy tắc. Ví dụ nói: nhật nguyên là mình, nhật nguyên là mộc lại sinh vào năm bị khắc, hoặc giả trong Tứ trụ kim nhiều thì cuộc đời của người đó không thuận lợi; nhật nguyên là mộc, trong Tứ trụ có thuỷ để tu dưỡng, ngũ hành bình hoà, đắc thời đắc địa thì cuộc sống anh ta tất sẽ thuận lợi.
Để nói rõ vấn đề này xin nêu ví dụ dưới đây
Ví dụ 1. Sinh năm quý mùi.
Có hai người bạn giờ kỷ tị, ngày giáp tí, tháng ất mão tức tháng 1/1987 đưa “lễ vật” đến thăm nhờ tôi đoán. Tôi xem Tứ trụ chỉ có can chi của năm mà không có tháng, ngày giờ. Một vòng Giáp tý 60 năm chỉ có 1 năm Quý mùi, 600 năm chỉ có 10 năm Quý mùi, 6000 năm chỉ có 100 năm Quý mùi. Do đó tôi hỏi là năm Quý mùi nào? Ông khách nói: xin ông đừng hỏi, cứ theo Tứ trụ mà đoán.
Loại Tứ trụ không cụ thể năm tháng như thế này là lần đầu tiên tôi gặp phải, vì vậy đành phải dùng phép gieo quẻ để đoán Tứ trụ. Tôi nói: Tứ trụ này là của nam giới, người khá cao, dáng đẹp; vợ anh ta cũng đẹp, quan hệ vợ chồng rất tốt. Về đường con cái, nếu con đầu là nam thì khó thành người, nếu là nữ thì lớn lên sẽ khá. Khách nói: mấy điểm này ông đều đoán đúng. Nhưng chúng tôi muốn đoán xem người này làm nghề gì? Nông dân, công nhân, cán bộ, thầy giáo, hay là nhà doanh nghiệp.
Tôi khẳng định rằng: chẳng là gì cả, là tướng hoặc soái cầm quân đánh nhau. Khách nói: đúng! Nhờ ông xem năm 39 tuổi vận khí ra sao? Tôi lập đại vận là năm Tân Hợi, tiểu vận là Canh dần, lưu niên là Tân Dậu, trong giờ lại ám tàng thất sát canh kim, mà trong can ngày của Tứ trụ là giáp mộc. Giáp mộc bị khắc vô sinh nên nhất định chết, không nghi ngờ gì nữa. Nên tôi nói: năm 39 tuổi, nửa năm đầu có công, nửa năm sau nhất định gặp tai nạn nặng. Cả hai vị khách kinh ngạc nói to: “Hoàn toàn đúng!”. Đây là Tứ trụ của anh hùng Nhạc Phi.vi dụ 2. Tháng 12 năm 1986, tôi đoán vận cho bà Lô. Căn cứ Tứ trụ của bà, sắp xếp đại, tiểu vận và lưu niên, tôi đoán năm 1987, bà bị nạn rất nặng, thời gian ở nửa năm đầu, đặc biệt là tháng 3, tháng 4 dương lịch không nên đi công tác về phía Tây bắc, nhân đó cũng bày cho bà biết cách giải nạn. Bà ấy đã không làm theo, ngày 14/4/1987 đi công tác về hướng Tây bắc. Trên đường trở về bị tai nạn ô tô mà chết. Đúng là ứng nạn quá nặng, đúng vào tháng 3 âm lịch. Ta thử xem Tứ trụ và đại, tiểu vận của bà ấy ra sao. Sinh giờ Mão, Ngày mồng 7 Tháng 3 Năm 1964 Quý mão,
Đinh dậu, Mậu thìn, Giáp thìn Đại vận: Bính dần, từ năm 15 đến 24 tuổi, gặp tử địa. Tiểu vận: Kỷ mão, dậu kim xung khắc Thái tuế mão mộc.
Lưu niên: Đinh mão. Mão mộc là Thái tuế, rất nghiêm trọng không thể phạm.
Vận dụng thiên can địa chi, âm dương để đoán tuổi
1) Vì sao đoán năm Đinh mão (1987) có tai nạn rất nặng? Vì trong Tứ trụ nhật nguyên Đinh dậu và giờ sinh Quý mão đúng là thiên khắc, địa xung. Chi của ngày là dấu kim xung khắc Thái tuế mão. Xung khắc Thái tuế là điềm đại hung nên tan nát. | 2) Tiểu vận là Kỷ mão, lưu niên Thái tuế là Đinh mão, giờ là Quý mão. Trong Tứ trụ có Dậu kim, tạo thành 1 Dậu xung 3 Mão, hay 3 Mão xung 1 Dậu là điềm đại hung.
3) Vì sao đoán tháng 3, tháng 4 dương lịch không nên đi hướng Tây bắc? Vì thời gian này đúng vào tháng 3 âm lịch. Trong Tứ trụ của bà ấy, năm là Giáp thìn, tháng là Mậu thìn tức là có hại Thìn thố, tháng 3 năm 1987 là Giáp thìn, phương tây bắc là Tuất, như vậy sẽ tổ hợp thành cách cục 3 Thìn xung 1 Tuất cũng là điềm đại hung.
4) Đại vận gặp tử địa là điềm hung. .
Tôi đã căn cứ vào các thông tin đó để đán năm 1987 bà ấy có nạn nặng, tháng 3, tháng 4 không nên đi công tác phía Tây bắc, nếu không hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Kết quả ứng nghiệm thật thần kỳ.
Ví dụ 3, Tháng 2/1989, khi tôi còn giảng bài ở Quảng Châu gặp một bản án bị hung sát. Để nghiên cứu vì sao nạn nhân chết vào năm 1988, nên đã ghi lại Tứ trụ, lập đại, tiểu vận để nghiên cứu nguyên nhân cái chết.
Sinh giờ Dần, Ngày 15 Tháng 8 Năm 1952 Nhâm dần, Nhâm ngọ, Kỷ dậu, Nhâm thìn
Đại vận: Quý Sửu: suy địa | Tiểu vận: Canh thìn: thìn là kho nước, là mộ địa.
Năm hạn: Mậu thìn: thìn là kho nước, là mộ địa. 1) Trong Tứ trụ “thìn, dậu, ngọ là tự mình phạt mình”.
2) Trong Tứ trụ 3 nhâm là kiếp, tài ngang hoà, vì của cải hoặc vì đàn bà mà bị hoạ kiếp sát (thực tế là gì của mà bị chết).
3) Can ngày là Nhâm thuỷ, sợ Thổ khắc. Đại vận, tiểu vận, lưu niên là 3 thổ chồng lên nhau mà khắc, có khác nhưng lại không có tinh.
4) Trong Tứ trụ chị năm có 1 Thìn thổ lại gặp tiểu vận là lưu niên có 2 Thìn thổ; Tứ trụ lại có 3 Nhâm thuỷ, vừa đúng để tạo thành 3 Thìn thổ khắc 3 Nhâm thuỷ, 3 mộ thu về 3 Nhâm cho nên đó là nạn chết người.
Sách “Hoàng đế nội kinh” nói: “Giữa trời đất, trong lục hợp, khí của nó có ở khắp nơi, ở ngũ tạng và 12 tiết đều thông với khí trời”. Trong ngày giờ tháng năm sinh của người ta, thiên can địa chi là khí âm dương ngũ hành, là tiêu chí cụ thể trong cơ thể, cũng là tiêu chí thông tin mệnh vận tốt xấu của cả cuộc đời. Cơ thể con người là diễn biến âm dương, ngũ hành sinh khắc trong tự nhiên, cho nên cơ thể luôn luôn liên thông với tự nhiên. Sở dĩ cơ thể và các thiên thể có sự cảm ứng lẫn nhau thành một thể thống nhất là vì khí người và khí trời liên thông với nhau. Âm dương ngũ hành của thiên thế sinh khắc dẫn đến muôn vàn sự thay đổi, nó ảnh hưởng đến cơ thể của ta và mệnh vận của con người. – Quả ba ví dụ trên không những nói lên sự sắp xếp thiên can địa chỉ trong Tứ trụ của thời điểm sinh biểu thị sự ảnh hưởng của âm dương ngũ hành sinh khắc chế hóa đối với con người mà còn nói lên con người cũng giống như vạn vật, đều có quá trình phát triển hưng suy tử vong. Quá trình này chính là vận khí mà ta hay nói đến.
Người xưa lấy sự sắp xếp của thiên can địa chi lúc sinh gọi là mệnh, lấy các giai đoạn trải qua của cuộc đời gọi là vận. Hai cái kết hợp với nhau gọi là mệnh vận. Mệnh vận của 1 người tốt hay xấu, vừa phải xem tổ hợp sắp xếp Tứ trụ của giờ sinh, vừa phải xem hành vận. Tổ hợp Tứ trụ tốt, hành vận cũng tốt là tốt nhất; tổ hợp Tứ trụ tốt, hành vận không tốt thì khó khăn gặp phải là tạm thời. Tổ hợp Tứ trụ không tốt lại gặp vận kém rõ ràng là đã phủ tuyết lại còn thêm sương mù, nhà rách lại gặp mưa to; tổ hợp Tứ trụ không tốt mà gặp vận tốt thì niềm vui đó không bền. Mệnh và vận so sánh với nhau, đương nhiên mệnh tốt là tốt nhất.
Làm chủ vận mệnh
Mình nắm vững mệnh vận của mình, điều đó là đúng, nhưng nếu không biết mệnh vận của mình thì không có cách gì để làm chủ mệnh vận được. Ví như anh không biết phương pháp và quy luật lái xe thì không thể làm chủ được xe và lái không tốt. Cho nên người ta nên biết để tự nắm vững mệnh vận của mình. Muốn biết mệnh vận của mình thì phải tìm hiếu mệnh vận của mình. Phương pháp duy nhất là sau khi dự đoán toàn diện cho mình, hiểu rõ được cát hung, lợi dụng những thời cơ có lợi để hành động, đối với việc có hại thì đề phòng. Hướng về điều tốt, tránh xa điều hoạ, chỉ có thế mới đạt được làm chủ mệnh vận của mình, nếu không thì chỉ là lời nói suông. Một nước cũng có vấn đề mệnh vận tốt xấu. Người ta từ hoàng đế đến dân thường đều có vấn đề mệnh vạn.
Về quan niệm mệnh vẫn là trời định, tôi cho rằng không thể nói như thế được. Mệnh vẫn là sản phẩm của âm dương ngũ hành trong thiên nhiên sinh khắc chế hóa mà biến thành. Con người cũng như mọi vật trong thiên nhiên đều chịu ảnh hưởng sự vận động của các thiên thể chứ không phải một ý chí cố định nào gọi là thiên mệnh định đoạt.
Muốn biết mệnh vận của mình thì phải tìm hiếu mệnh vận của mình